Theo
kế hoạch sản xuất - kinh doanh trong năm 2011, Vinacomin phấn đấu khai
thác 47,8 triệu tấn than nguyên khai, tăng 800 tấn so với kế hoạch do Bộ
Công thương phê duyệt; tiêu thụ 44,5 triệu tấn, tăng 500 ngàn tấn;
doanh thu ước đạt 90.000 tỷ đồng, tăng 11% so với kế hoạch; lợi nhuận
phấn đấu đạt 7.500 tỷ đồng, thu nhập bình quân đạt 7,5 triệu
đồng/người/tháng; nộp ngân sách Nhà nước 14.000 tỷ đồng.
Trong các tháng còn lại của năm, Tập đoàn sẽ tập trung đẩy mạnh sản xuất - kinh doanh, góp phần làm cho GDP của tỉnh Quảng Ninh
năm 2011 đạt được tốc độ tăng trưởng đã đề ra. Và đây cũng là bước
chuẩn bị quan trọng để Tập đoàn xây dựng phương án sản xuất - kinh doanh
trong giai đoạn 2011-2015.
Theo
ông Phạm Văn Mật, Phó Tổng Giám đốc Tập đoàn, Giám đốc Trung tâm điều
hành sản xuất tại Quảng Ninh, thì kế hoạch sản xuất kinh doanh 5 năm
2011-2015 của Tập đoàn bình quân mỗi năm tăng thêm 2 triệu tấn than
sạch; năm 2015 đạt từ 55 đến 60 triệu tấn; đồng thời than xuất khẩu giảm
dần theo hướng năm 2011 có 16,5 triệu tấn; năm 2012 giảm xuống còn 14,5
triệu tấn và đến năm 2015 thì giảm chỉ còn khoảng trên dưới 3 triệu
tấn; doanh thu năm 2015 phấn đấu đạt gấp đôi năm 2010. Cùng với đó, Tập
đoàn cũng đẩy mạnh việc sản xuất, kinh doanh điện. Cụ thể là tập trung
duy trì Nhà máy Nhiệt điện Cẩm Phả 1 và 2 hoạt động ổn định; hoàn thiện
và đưa vào vận hành Nhà máy Nhiệt điện Mạo Khê vào tháng 9 năm 2012;
phát triển cơ khí mỏ phục vụ sản xuất, duy trì cơ khí đóng tàu
Vinacomin…
Tuy
nhiên, để hoàn thành được những nhiệm vụ trong giai đoạn 5 năm
2011-2015 theo quy hoạch phát triển ngành Than đến năm 2020, tầm nhìn
đến 2030, hiện nay, bên cạnh lợi thế về tài nguyên, khoáng sản, nhân
lực, Vinacomin cũng đang gặp rất nhiều khó khăn. Đó là trong thời gian
từ năm 2009 đến nay, việc cấp phép thăm dò và cấp phép khai thác tài
nguyên chưa được giải quyết. Nếu không thăm dò, bổ sung, nâng trữ lượng
thì việc lập các dự án đầu tư, duy trì, mở rộng và đầu tư mới các mỏ
không thể triển khai được. Và như vậy, sẽ không có nguồn sản lượng bù
cho các dự án sắp kết thúc và tăng sản lượng bình quân 2 triệu tấn/năm
theo kế hoạch. Mặt khác, nguồn vốn đầu tư càng ngày càng khó khăn. Hiện
nay, các dự án đầu tư các mỏ hầm lò mới, các tuyến băng tải, các kho
cảng, cải tạo xuống sâu các mỏ lộ thiên cần nguồn vốn rất lớn,
như với Núi Béo cần trên 5.000 tỷ đồng; Hà Lầm trên 8.000 tỷ đồng… Hệ
thống các kho, cảng cũng cần từ 1.000 - 2.000 tỷ đồng/cụm cảng… Nguồn
vốn cần nhiều như vậy, trong khi đó, lãi suất vay cao, Chính phủ lại
khống chế số nợ không quá 3 lần. Nếu nhìn một cách tổng thể thì hiện
nay, giá than xuất khẩu cao, nhưng kế hoạch xuất khẩu lại giảm dần; than
cấp cho các cơ sở sản xuất điện chỉ bằng khoảng 60% giá thành; giá bán
điện của các nhà máy điện của Tập đoàn cho EVN thấp hơn các nhà máy
khác...
Trước
những khó khăn như vậy, hiện Tập đoàn đang chủ động tập trung chỉ đạo
quyết liệt các nhóm giải pháp chủ yếu. Đó là: Tiếp tục kiến nghị với Thủ
tướng Chính phủ, Bộ Công thương, Bộ TN&MT sớm phê duyệt quy hoạch
phát triển ngành Than đến năm 2020, định hướng đến năm 2030, phê duyệt
cấp phép thăm dò, nâng cấp trữ lượng và cấp giấy phép khai thác cho các
dự án đang mở rộng sản xuất, đầu tư mới. Trong đó, Tập đoàn chỉ đạo tập
trung xây dựng các mỏ hầm lò mới xuống sâu, đồng thời cải tạo các mỏ lộ
thiên Cao Sơn, Đèo Nai, Cọc Sáu, Tây nam Đá Mài. Đầu tư xây dựng và hoàn
thiện các Nhà máy Nhiệt điện Mạo Khê 440MW, Cẩm Phả 3 330MW, tăng cường
đầu tư đổi mới công nghệ khai thác hệ thống bến bãi, tuyến đường vận
tải để không ngừng nâng cao năng suất lao động, nâng cao mức độ đảm bảo
an toàn cho người lao động và bảo vệ môi trường.
Theo
kế hoạch, đến năm 2015, Tập đoàn sẽ lo đủ chỗ ở tập thể cho công nhân
lao động hầm lò tại các khu tập thể cao tầng gần khu dân cư, xây dựng
các khu đô thị tại Uông Bí, Cẩm Phả, Hạ Long để tạo quỹ đất cho gia đình
công nhân mỏ; từ đó tạo sự gắn kết lâu dài với ngành Than…
|